Lịch sử Gò_Dầu

Nguồn gốc tên gọi

Trước thế kỷ XVII, vùng đất huyện Gò Dầu ngày nay còn hoang vu, nhiều rừng rậm và thú dữ. Vào giữa thế kỉ XVII, một bộ phận dân cư các tỉnh miền Trung vào nam lập nghiệp. Họ dừng chân ở một vùng đất gò có nhiều cây dầu, cạnh sông Vàm Cỏ Đông, tên gọi "Gò Dầu" có từ đó.

Thời Pháp thuộc

Gò Dầu vốn là một tổng của quận Trảng Bàng với tên gọi là tổng Mỹ Ninh.

Năm 1948, quận Gò Dầu Hạ được thành lập, sau đó giải thể, rồi được lập lại; quận lỵ đặt tại xã Thanh Phước.

Năm 1959, chính quyền Sài Gòn chia quận Gò Dầu Hạ thành hai quận: Hiếu Thiện và Khiêm Hanh. Quận Hiếu Thiện có quận lỵ tại Gò Dầu Hạ, gồm 3 tổng: Mỹ Ninh, Giai Hoá, Triêm Hoá, chia thành 15 xã. Quận Khiêm Hanh có quận lỵ tại Bàu Đồn, có 1 tổng là Thạnh Bình, chia thành 5 xã.

Về phía chính quyền cách mạng, sau Hiệp định Giơnevơ, đầu năm 1955, một phần đất phía bắc huyện Trảng Bàng được tách ra để thành lập huyện Gò Dầu.

Cuối năm 1959, tách phần đất phía tây sông Vàm Cỏ Đông thuộc huyện Gò Dầu để thành lập huyện Bến Cầu.

Năm 1960, huyện Gò Dầu lại nhập vào huyện Trảng Bàng nhưng đến cuối năm 1961 lại tách ra.

Sau năm 1975, huyện Gò Dầu có thị trấn Gò Dầu và 7 xã: Bàu Đồn, Cẩm Giang, Hiệp Thạnh, Phước Thạnh, Phước Trạch, Thạnh Đức, Thanh Phước.

Từ năm 1976 đến nay

Ngày 26 tháng 9 năm 1981, thành lập xã Phước Đông từ ấp Phước Đức của xã Phước Thạnh và các ấp Cây Trắc, Suối Cao của xã Thanh Phước. Từ đó, huyện Gò Dầu có thị trấn Gò Dầu và 8 xã, giữ ổn định cho đến ngày nay.